Kinh tế
Hiện nay phong trào nuôi cá cảnh khá phổ biến trong các hộ gia đình, cả ở thành phố và nông thôn. Tuy nhiên, đa số người nuôi đều theo cảm hứng, còn sự hiểu biết về sinh lý, sinh hóa, tập tính, dịch bệnh của cá cảnh còn rất mơ hồ. Đã không ít người bị thiệt hại khi nuôi cá cảnh do dịch bệnh gây ra. Xin giới thiệu một số kinh nghiệm về phòng ngừa bệnh hại cá cảnh để người nuôi tham khảo.
Triệu chứng khi cá mắc bệnh
Triệu chứng rõ nhất khi cá bị bệnh được biểu hiện qua màu sắc trên thân cá và cử chỉ hành động. Khi nhiễm bệnh, màu sắc thân cá hơi nhạt đi so với màu cơ bản, màu cá có thể trắng bệch hay đen sẫm, cá bị tuột vảy hay ra nhiều nhớt. Hoạt động bơi lội chậm chạp và tách ra riêng khỏi đàn vào góc bể, cá đơn độc bơi gần mặt nước hay dựa vào thành bể hay góc hồ, phản ứng chậm hay không có phản ứng khi có tiếng động mạnh, cũng có khi cá chuyển động xoay tròn hay nằm ngửa xuống đáy bể. Các vây, mắt, đầu, lỗ hậu môn, bụng có thể xuất huyết, mang có ký sinh trùng hoặc nấm gây thối rữa, giải phẫu thấy phân, ruột, nội tạng bất bình thường.
Những nguyên nhân chính gây bệnh cho cá cảnh
1. Môi trường nước bị ô nhiễm và các yếu tố môi trường không thích hợp:
Có thể nói môi trường nước là yếu tố quan trọng hàng đầu. Nước sạch cá sẽ khỏe và sinh trưởng tốt, còn nước dơ sẽ làm cá nhiễm rất nhiều bệnh. Cá cảnh nuôi chỉ thích hợp ở một phạm vi nhất định về tính chất hóa lý của môi trường nước. Vượt quá phạm vi đó, cá sẽ bị phát bệnh ngay. Nguyên nhân chủ yếu làm thay đổi chất lượng nước là sự phân hủy thức ăn và phân do cá bài tiết ra tạo điều kiện cho phiêu sinh vật, tảo có cơ hội phát triển, từ đó dẫn đến nước bị hủy hoại. Khi hàm lượng chất thải cao, lượng oxy hòa tan trong nước sẽ giảm, pH thay đổi bất lợi cho cá. Nhiệt độ nước thay đổi đột ngột vượt quá giới hạn cũng là tác nhân gây bệnh cho cá.
2. Thức ăn và cách cho cá ăn không thích hợp:
Chất lượng thức ăn cung cấp hàng ngày cho cá không được bảo đảm tốt, thức ăn bị thiu, thối rữa biến chất hay thành phần dinh dưỡng trong khẩu phần thức ăn không đủ, cho ăn không đúng kỹ thuật cũng gây bất lợi cho cá.
3. Do nguyên nhân chủ quan:
Bắt cá, ép cá đẻ, thay nước... do bất cẩn có thể làm cho cá bị tuột vảy, gây thương tích cho cá. Tại những vị trí hồ bị dơ, vi khuẩn gây hại cho cá sẽ “đóng ổ” chờ để khi có cơ hội tấn công cá.
4. Những nguồn bệnh từ bên ngoài:
- Từ thức ăn: artemia, trùn chỉ, cung quăng... từ nơi bán mang về mà chưa xử lý lại cũng có thể gây bệnh cho cá, vì đây là những loại thức ăn mang nhiều mầm bệnh tiềm ẩn trong thân.
- Từ những loài thực vật thủy sinh trong nước: bèo, rong cỏ có trong nguồn nước cho vào hồ nuôi cá có thể mang những mầm bệnh do cá hồ khác hay nơi nào đó bám vào.
- Từ dụng cụ cho bể cá trước đó đã vô tình dùng cho bể cá bệnh mà không tẩy rửa diệt khuẩn kỹ.
- Từ cá mới mua về có thể mang mầm bệnh mà không qua xử lý đã thả ngay vào bể cá cũ nuôi chung.
Phương pháp ngừa bệnh
1. Duy trì chất lượng nước tốt và ổn định nhiệt độ:
Nước dùng để nuôi cá phải là nước sạch và cần qua xử lý để có độ pH, nhiệt độ thích hợp cho cá. Nước trước khi thả cá cần được phơi dưới nắng mặt trời. Nếu sử dụng nước máy thì phải phơi nắng trên một ngày, dùng nước giếng phải phơi từ 12 giờ trở lên.
Mật độ nuôi phải vừa phải, không thả quá nhiều cá thể và nhiều loài trong một bể nuôi. Thường xuyên làm vệ sinh hồ và nhất là đáy hồ, không để phân cá tồn trữ quá lâu trong bể vì đây là tác nhân chính gây ra bệnh cho cá.
Khi thay hay thêm nước mới thì nước mới phải có chỉ số nhiệt độ, pH... giống hay gần giống với nước trong bể, biên độ nhiệt giữa ngày và đêm không vượt quá 5 độ C.
2. Chất lượng thức ăn và cách cho ăn:
Thức ăn cũng rất quan trọng với cá, thức ăn tốt chẳng những đảm bảo cho cá tăng trưởng và phát dục tốt mà còn tác động đến màu sắc trên thân cá, làm cá thêm tươi tắn, thêm sinh khí. Thức ăn cho cá cảnh phải tươi sống, tốt, hợp vệ sinh, đủ chất đạm, chất béo, vitamin... Không nên cho cá ăn thức ăn thối rữa, kém phẩm chất. Thức ăn tươi vớt từ cống rãnh trước khi cho cá ăn cần rửa sạch.
Lượng thức ăn cần căn cứ vào mật độ, trọng lượng, cỡ cá, tình hình bắt mồi và sinh trưởng của cá mà định lượng, định giờ cho cá ăn. Không nên cho ăn tùy tiện nhiều bữa hay ít bữa trong một ngày. Cũng cần theo thời tiết, mùa mà xác định lượng thức ăn và hàm lượng thức ăn.
3. Tránh gây thương tích cho cá:
Khi thả cá hay bắt cá cần nhẹ nhàng, dùng vợt mềm xúc cá, tránh sây sát, tuột vảy, hư vây làm chảy máu cá.
4. Vệ sinh hồ nuôi:
Trước khi thả cá vào bể cần phải sát trùng bể nuôi bằng cách phơi nắng cho khô đáy bể. Với bể xi măng thì dùng vôi sống hay vôi bột quết trong và ngoài bể. Với ao đất tùy theo kích thước và độ sâu mà rải vào lượng vôi thích hợp, có thể rải vôi bột với lượng 10 kg trên 100 mét vuông. Sử dụng clorur vôi vãi xuống ao hồ xây bằng xi măng với nồng độ 20 ppm ngâm trong một tuần, rửa sạch bể trước khi thả cá. Với dụng cụ phải diệt khuẩn, rửa sạch trước khi dùng, có thể dùng muối hột với nồng độ 3% hay clorin nồng độ 200 - 220 ppm ngâm trong vòng 48 giờ rồi phơi khô.
Trước khi thả cá cần diệt khuẩn bằng cách ngâm cá trong dung dịch nước muối 3 phần ngàn hay dung dịch KMnO4 nồng độ 10 ppm (10 mg cho 1 lít nước) trong 10 - 15 phút.
Xử lý cá bệnh
Khi phát hiện cá bệnh lập tức vớt ra riêng, cách ly, để tránh lây nhiễm với những con còn khỏe và sớm xác định bệnh để có biện pháp chữa trị kịp thời, đề phòng bệnh truyền nhiễm. Khi cá khỏe trở lại không nên thả ngay vào đàn cũ mà phải nuôi riêng và quan sát trong một khoảng thời gian 2 - 3 ngày, vì sau khi chữa khỏi một số cá vẫn còn mang mầm bệnh trong mình.
Các biện pháp điều trị bệnh cho cá:
- Tắm cá trong dung dịch thuốc là phương pháp chữa bệnh thường dùng nhất.
- Trộn thuốc với thức ăn: khi cá bệnh nhưng vẫn còn khả năng bắt mồi, ta có thể trộn thuốc vào thức ăn cho cá ăn cả thuốc lẫn mồi.
- Chích thuốc: một số loại cá quý có kích thước lớn có thể nhẹ nhàng bắt lên và tiêm thuốc cho cá vào xoang bụng.
- Thay đổi nước: làm cho nước sạch, thay đổi nhiệt độ hay độ pH của nước để tiêu diệt ký sinh. Ví dụ như đối với bệnh đốm trắng, ta có thể tăng nhiệt độ và muối tới mức giới hạn để chữa cho cá và thay ra một lượng nước nhất định. Chú ý không để biến động pH và nhiệt độ quá nhiều.